sự phát triển của doanh nghiệp việt nam

Những năm gần đây, quá trình chuyển đổi số trong các doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, mở ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và có cạnh tranh bình đẳng hơn với các doanh nghiệp trên thị trường thế giới. Cuộc khủng hoảng COVID-19 PTI vừa được Phòng thương mại và công nghệ Việt Nam (VCCI) tặng Bằng khen vì đã có nhiều đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển cộng đồng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2012. Trong buổi Lễ này, PTI là một trong 14 doanh nghiệp của Hà Nội vinh dự đạt được thành tựu này. PV Các doanh nghiệp việt nam là một trong những từ khóa được tìm kiếm nhiều về chủ đề các doanh nghiệp việt nam. Trong bài viết này, sme.vn sẽ viết bài viết Tổng hợp các doanh nghiệp việt nam sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế nước nhà. Hiện tại, ngành may mặc Việt Nam không thiếu khách hàng; tuy nhiên, muốn biến cơ hội thành của cải, các doanh nghiệp Việt phải phát triển theo xu hướng xanh - bền vững. Cụ thể hơn, sau khi 'số hóa' chúng ta cần phải 'xanh hóa' và nên tự mình làm các chứng chỉ […] Hình thành trên nền tảng tình hữu nghị và hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Singapore, qua 26 năm phát triển, từ Khu công nghiệp Việt Nam-Singapore 1 (KCN VSIP 1) ở tỉnh Bình Dương vào năm 1996, đến nay VSIP Group đã có 11 dự án tại nhiều tỉnh, thành thu hút đầu tư rất hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát triển Wenn Ein Mann Lange Single Ist. Khóa luận tốt nghiệptranh gay gắt của người Pháp, Hoa kiều. Đây có thể coi là một thời điểmbước ngoặt trong truyền thống hoạt động kinh doanh của V i ệ t Nam, từ chỗnkhông được nhà nước phong kiến thừa nhận các loại hình doanh nghiệp đếchỗ được thừa nhận bởi sự cai trọ của ngày Cách mạng Tháng T á m thành công và chín năm kháng chiếnchống Pháp, mặc dù bọ chia thành vùng tạm chiế và vùng tự do, hoạt độngmkinh doanh về thực chất không có nhiều biến động m à còn được khuyếnkhích đối với người Việt Nam hơn giai đoạn trước. Nhà nước đã ban hànhsắc lệnh xoa bỏ m ọ i sự hạn chếcủa chế độ thực dân Pháp đối với các thủtục đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, chính phủ cũngđồng ý để các công ty ngoại quốc được tiếp tục tiến hành cấc hoạt độngkinh doanh như trước. Đây là lần đáu tiên ở Việt Nam xuất hiện loại hìnhdoanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài. Thòi kỳ này, các chủ doanhnghiệp cũng đóng góp nhiều công sức và tài sản cho cuộc kháng khác biệt lòn nhất trong thời kỳ này là các loại hình doanh nghiệp từchỗ chọu sự điều chỉnh của luật nước Pháp sang chọu sự điều chỉnh của luậtnước Việt Nam độc năm 1954, tình hình chính trọ và xã hội V i ệ t Nam có những biếnđộng lớn. Mặc dù đã giành được độc lập nhưng đất nước vẫn bọ chia cắtthành hai miền hoàn toàn khác nhau về chính trọ và kinh tế và do vậy nhữngloại hình doanh nghiệp ở hai miền có nhiều biến động miền Bắc, Chính phủ thực hiện chính sách xoa bỏ từng bước hìnhthức sở hữu tư nhân, thực hiện quốc hữu hoa hầu hế những doanh nghiệptcó nguồn gốc sở hữu tư nhân, tổng số khoảng 960 cơ sở. v ề thực chất làxoa bỏ hầu hế những loại hình doanh nghiệp, tức là các hình thức sở hữutkhác nhau đối với các cơ sở sản xuất, chỉ còn tồn tại những cơ sở sản xuất,doanh nghiệp thuộc sở hữu quốc doanh và tập viên Nguyễn Thị Lè Trang - Trung 2 - K40F - KTNT14 Khóa luận tốt nghiệpTại miền Nam, tình hình khác hẳn, chính quyền Sài G ò vẫn duy t ìnrnhững loại hình doanh nghiệp đa dạng, bao gồm cả sở hữu tư nhân, đầu tưtừ nước ngoài. Đ ể bảo đảm thuận l ợ i cho hoạt động sản xuất kinh doanh,chính quyền Nguy còn ban hành những chính sách bảo hộ cho doanhnghiệp trong nước, đánh thuế cao vào hàng hoa nhập khờu, ưu đãi thuế chonhập nguyên liệu, cấm Hoa kiều sản xuất kinh doanh 11 ngành k i n h tế, hỗtrợ tín dụng cho các doanh nghiệp. Thời kỳ này, doanh nghiệp tại miềnNam Việt Nam phát triển tương đối mạnh mẽ. Tính đến năm 1975, tại miềnNam có doanh nghiệp thuê từ 5 công nhân trở lên.[Ì, k h i thống nhất đất nước năm 1975, tại miền Nam, các loại hìnhdoanh nghiệp cũng có những biến động to lớn, giống như miền Bắc thời kỳtrước đó. Trong thời kỳ này Nhà nước đã quốc hữu hoa cơ sở sản xuấtkinh doanh của cả người Việt Nam và người nước ngoài. T ừ năm 1979 đếnnăm 1986, trên lãnh thổ nước Việt Nam thống nhất, các loại hình doanhnghiệp có nguồn gốc sở hữu ngoài nhà nước và tập thể không được phép tồntại, chỉ có các doanh nghiệp quốc doanh và các cơ sở sản xuất sở hữu tập thểvà các hợp tác xã. Tính đến năm 1986, cả nước có khoảng doanhnghiệp quốc doanh, một con số rất nhỏ so v ớ i dân số 65 triệu người.[2, tr. 67]. Thời kỳ từ 1987 đến nayThực hiện chính sách đổi mới, các loại hình doanh nghiệp lần lượtđược Chính phủ cho phép hoạt động. Ngày 29-12-1987, Luật dầu tư nướcngoài được ban hành, chính thức chấp nhận sự trở lại của đầu tư nước ngoàitại Việt Nam. N h ư vậy, sau hơn 10 năm, kể từ ngày đất nước thống nhất,đã xuất hiện các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, báo hiệu nhữngloại hình doanh nghiệp khác sẽ dược phép hình thành và phát viên Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT15 Khóa luận tốt nghiệpNghị quyết Đ ạ i h ộ i lần thứ V I của Đảng và Nghị quyết H ộ i nghị lầnthứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã công nhận sự t ồ n tại của cácthành phần kinh tế cá thể và tư doanh trong cơ cấu nền k i n h tế quốc dân bêncạnh kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã. Các hoạt động kinh tế của cácthành phần k i n h tế này thực hiện dưới 3 hình thứci hộ cá thể,ri hộ tiểu công nghiệp vàiii xí nghiệp tư doanhTuy nhiên, các quy định về hình thức kinh doanh này không rõ ràng,cở thể, và rất chung chung. Luật pháp không xác định rõ chế độ tráchnhiệm, tổ chức quản lý, và bị hạn chế rất nhiều trong hoạt động kinh trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, ngày 21-112-1990,Quốc hội khoa V U I đã thông qua hai đạo luật quan trọng là Luật công ty vàLuật doanh nghiệp tư nhân. Hai đạo luật này đã tạo cơ sở chính trị pháp lýcho sự phát triển k h u vực kinh tế tư nhân ở nước ta, là một mốc quan trọngvà có ý nghĩa quyết định trong quá trình đổi m ớ i kinh tế, chuyển sang nềnkinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý củaNhà nứơc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật doanh nghiệp tư nhân vàLuật công ty quy định 3 loại hình doanh nghiệp cho k h u vực k i n h tế tư nhânlà công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư hơn 8 năm thi hành Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân,đã có hơn doanh nghiệp đăng ký thành lập v ớ i số vốn đăng kýkhoảng tỷ đồng. Trung bình m ỗ i n ă m có thêm doanh nghiệpmới đăng ký với tổng số vốn đăng ký trung bình n ă m khoảng tỷ ước tính sơ bộ, trong hơn 8 năm, doanh nghiệp tư nhân và công tyđã tạo ra hơn chỗ làm và đã đóng góp không nhỏ vào nguồn thuSinh viên Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT16 Khóa luận tốt nghiệpcủa ngân sách nhà nước. Công ty và doanh nghiệp tư nhân tạo ra khoảng8 % tổng sản phẩm xã hội.[3, suốt thời gian m ư ờ i mấy n ă m vừa qua, khung k h ổ pháp lý nóichung và khung k h ổ pháp lý về doanh nghiệp nóiriêngđã không ngừngđược hoàn thiện và phát triển thêm. Bộ luật dân sự, Bộ luật thương mại,Luật khuyến khích đẳu tư trong nước, Luật phá sản doanh nghiệp và cácluật khác về doanh nghiệp như Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật hợp tácxã, đã được ban hành. Luật đẳu tư nước ngoài cũng được sửa đổi, bổsung theo hướng thu hẹp sự khác biệt, tiến t ớ i tiến trình hình thành mộtkhung khổ pháp lý bình đẳng đối với doanh nghiệp trong nước và doanhnghiệp có vốn đẳu tư nước ngoài. Điều này phù hợp với các cam kết quốc tếcủa Việt Nam k h i tham gia A S E A N AFTA, chương trình M A , AICO,APEC, ký kết hiệp định thương mại với Hoa K ỳ và đang cam kết để gianhập WTO...V ớ i tính thời sự và tâm quan trọng của công cuộc đổi m ớ i kinh tế m àĐảngvà N h à nước ta đề ra và quyết tâm thực hiện, thì những quy địnhtrong Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ban hành trước đây khôngcòn thích hợp với n ộ i dung tương ứng của một số luật khác có liên quan,đặc biệt là Luật khuyến khích đẳu tư trong nước, Bộ luật dân sự, Bộ luậtthương mại... Điều đó đòi hỏi phải có sự sửa đổi về hai đạo luật này và đitới một dạo luật chung thống nhất điều chỉnh về các loại hình công ty vàdoanh nghiệp tư nhân theo hướng mở rộng thêm các loại hình doanh nghiệpkhác, đơn giản hoa thủ tục đăng ký kinh doanh, Điều này sẽ tăngcường tính linh hoạt cho các nhà đẳu tư trong việc lựa chọn hình thức và cơhội đẳu tư phù hợp nhất với khả năng của h ọ và tăng_cường vai trò quản lýnhà nước, giám sát bằng pháp luật đối với doanlị. nlMẹ^lHitc hiện cải cáchthủ tục hành viên Nguyễn Thị Lê Trang • Trung ĩ - K40F - KTNT17 Khóa luận tốt nghiệpNgày 12-6-1999, Quốc hội khoa X, kỳ họp thứ 5 đã thông qua toànvăn Luật doanh nghiệp vối 10 chương và 124 diều. Luật doanh nghiệp quyđịnh về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hìnhdoanh nghiệp công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợpdanh và doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp được chuyển đổi thànhcông ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tẫ doanh nghiệp nhà nước,doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã 26-11-2003, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 4 dã thông qua toànvăn Luật doanh nghiệp nhà nước mới với 11 chương và 95 điểu thay thếLuật doanh nghiệp nhà nước năm 1995. Luật doanh nghiệp nhà nước 2003quy định về việc thành lập mới, tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu, tổchức quản lý và hoạt động của công ty nhà luật trên cùng với một số quy định về doanh nghiệp có vốn đầu tưnước ngoài và một số văn bản pháp quy nghị định, thông tư hướng dẫn thựchiện các quy định đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trởthành khung phấp lý cơ bản về pháp luật doanh nghiệp Việt Nam trong hệthống luật kinh tế nước ta điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp hoạtđộng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP VIỆTNAM XÉT THEO T H À N H PHẦN SỞ HỮU HIỆN NAY1. Doanh nghiệp nhà nướcDoanh nghiệp nhà nước gồm có các tổng công ty nhà nước được thànhlập và tổ chức hoạt động theo quyết định QĐ90/TTG ngày 7/3/94 vàQĐ91/TTG ngày 7/3/94, các doanh nghiệp hoạt động độc lập với mục đíchkinh doanh hoặc hoạt động cõng viên Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F -KTNT Khóa luận tốt nghiệpTheo Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê, tính đến n ă m 2000,nước ta có khoảng doanh nghiệp nhà nước, chiếm khoảng 1 7 % tổngsố doanh nghiệp cả nước, số lượng giảm khoảng doanh nghiệp sovới dầu năm 1990, m à nguyên nhân chủ yếu là diễn ra do quá trình sápnhập. Theo nguyên tắc hiến định, doanh nghiệp nhà nước là dộng lực củanền kinh tế, góp phần để k h u vực kinh tế thực hiện được vai trò chủ đữotrong nền kinh tế quốc dân, là đòn bẩy thu hút và khuyến khích các thànhphần kinh tế khác liên kết với doanh nghiệp nhà nước phát huy sức mữnhtổng hợp của nền kinh tế. Các doanh nghiệp nước nắm g i ữ hầu hết cácnguồn lực cơ bản trong xã hội 86,6% tổng số vốn; 8 5 % tài sản cố định;1 0 0 % các mỏ và tài nguyên thiên nhiên, 8 0 % rừng... Tuy nhiên, khu vựckinh tế nhànước chỉ đóng góp 3 0 % vào GDP, 6 0 % số doanh nghiệp nhànước làm ăn thua lỗ. Tổng số nợ của các doanh nghiệp nhà nước bao gồmcả nợ nội bộ lên đến 135 tỷ USD vào cuối năm 1999 Số liệu của W o r l dBank.V ớ i mục tiêu thực hiện sắp xếp, đổi m ớ i doanh nghiệp nhà nước từnăm 1992, kết quả đữt được tính đến hết tháng 7/2004 cả nước đã cổ phầnhóa được doanh nghiệp nhà cổ phần, doanh nghiệp nhà nước được cơ cấu theo hướng tậptrung quy m ô lớn, hướng vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinhtế. Hiệu quả sau k h i sắp xếp lữi là đã tăng thêm tỷ số vốn huy động;quy m ô vốn của doanh nghiệp nhà nước tăng từ bình quân khoảng 24 tỷđồng năm 2001 lên 63,6 tỷ đồng. Tài chính doanh nghiệp dược lành mữnhhóa thông qua việc cơ cấu lữi các khoản nợ; xử lý tài sản là vật tư, hàng hóaứ đọng, tồn kho, m á y m ó c thiết bị cũ... ị nguồn www. mọi. doanh nghiệp nhà nước có đóng góp quan trọng vào nền kinh tếquốc dânSinh viên Nguyễn Thị Lê Trang - Trung 2 - K40F - KTNT19 News Release 28 Tháng 4 2021 Read time 5 mins HÀ NỘI, VIỆT NAM 28 tháng 4 năm 2021 — Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được dự báo sẽ phục hồi ở mức 6,7% trong năm nay bất chấp sự bùng phát trở lại của đại dịch COVID-19 ở các quốc gia lân cận, và tăng lên 7,0% trong năm 2022, theo một báo cáo mới đây của Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB. “Tiêu dùng nội địa trì trệ và sức cầu bên ngoài yếu do đại dịch COVID-19 làm giảm tốc độ tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong năm ngoái, nhưng đà tăng trưởng vẫn tiếp tục mạnh trong năm nay và năm sau, nhờ thành công của Việt Nam trong việc kiểm soát sự lây lan của virus,” Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam Andrew Jeffries phát biểu. “Nhưng năm nay và năm sau vẫn còn nhiều rủi ro đáng kể, trong đó có sự trở lại của các biến thể virus corona mới và sự chậm trễ trong chương trình vắc-xin của chính phủ.” Báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á ADO 2021 nhận định rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ được thúc đẩy bởi ngành công nghiệp chế biến chế tạo định hướng xuất khẩu, tăng đầu tư và mở rộng thương mại. Đà tăng trưởng được dự báo sẽ tiếp tục, nhờ các chương trình cải cách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và sự tham gia của Việt Nam vào nhiều hiệp định thương mại tự do với hầu hết các nền kinh tế phát triển. Giá dầu thế giới và tiêu dùng nội địa cùng gia tăng, dự kiến sẽ đẩy tỉ lệ lạm phát lên 3,8% trong năm nay và 4,0% trong năm 2022. Sự phục hồi nhanh hơn so với dự kiến ở Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Mỹ sẽ cải thiện đáng kể triển vọng thương mại và tăng trưởng của Việt Nam, báo cáo nhận định. Tuy nhiên, tốc độ triển khai chương trình tiêm chủng COVID-19 không đồng đều trên toàn cầu có thể trì hoãn việc Việt Nam trở lại với mức tăng trưởng mạnh mẽ trước đại dịch, do nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế. Đầu tư tư nhân trong nước phục hồi nhanh chóng có thể làm trầm trọng thêm nguy cơ bong bóng tài sản, nếu như tín dụng không được dẫn hướng vào các lĩnh vực sản xuất. Báo cáo còn nhận định rằng Việt Nam có thể duy trì tăng trưởng bao trùm bằng cách làm dịu đi tác động của đại dịch đối với nghèo đói và thu nhập. Báo cáo kêu gọi chính phủ áp dụng một chiến lược bền vững, dài hạn để giúp đỡ cho sinh kế của người nghèo và người dễ bị tổn thương thông qua những biện pháp như đào tạo nghề và cải thiện tiếp cận với tín dụng vi mô cho các doanh nghiệp mới. ADB cam kết đạt tới một khu vực châu Á và Thái Bình Dương thịnh vượng, đồng đều, thích ứng và bền vững, trong khi duy trì nỗ lực xoá đói nghèo cùng cực. Được thành lập năm 1966, ADB thuộc sở hữu của 68 thành viên, trong đó có 49 thành viên trong khu vực. Media Contact Related Mỗi tháng gần doanh nghiệp rời thị trườngTheo đánh giá của Vietnam Report trong một báo cáo công bố ngày 10/11, năm 2020, thế giới đã chứng kiến và trải qua rất nhiều biến động, điều này ảnh hưởng đến không chỉ các quốc gia đang phát triển và những nền kinh tế nhỏ mà ngay cả các cường quốc lớn cũng phải chịu những tổn thất vô cùng nặng dịch Covid-19 bùng phát đã gây ra hàng loạt các tác động nghiêm trọng Gần 46 triệu ca bệnh, hơn 1 triệu người tử vong, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp không ngừng gia tăng, doanh nghiệp giải thể hoặc tạm ngừng sản xuất...Biểu đồ doanh thu và tốc độ tăng trưởng doanh thu theo ngành cho thấy, lĩnh vực tài chính vẫn "sống khoẻ" qua đại dịchTrong khảo sát do Vietnam Report thực hiện vào tháng 10/2020, có 24,4% doanh nghiệp đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh 9 tháng năm 2020 tăng so với cùng kỳ 2019 trong khi 36,6% doanh nghiệp đánh giá tình hình cơ bản ổn định và 39 % doanh nghiệp cho biết hoạt động sản xuất kinh doanh giảm trong khảo sát này, khi được hỏi về biến động doanh thu 9 tháng của năm 2020, có tới 41,5% doanh nghiệp cho biết doanh thu bị giảm so với cùng kỳ năm 2019, 43,9% doanh nghiệp đánh giá doanh thu tăng và chỉ có 14,6% doanh nghiệp cho rằng chỉ tiêu này là cơ bản ổn kết quả khảo sát được Vietnam Report tiến hành trong thời gian vừa qua, có 4 rào cản ảnh hưởng nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong năm 2020, đó là Thị trường bị thu hẹp, nhu cầu mua sắm và tiêu dùng giảm do dịch Covid-19; tăng trưởng kinh tế không ổn định; chiến tranh thương mại giữa các quốc gia và các nền kinh tế lớn; gián đoạn, đứt gãy chuỗi cung Việt Nam, dịch Covid-19 đang được kiểm soát tốt và cuộc sống người dân dần đi vào ổn định kể từ đầu tháng 9. Tuy nhiên, những hậu quả do đại dịch này gây ra đối với nền kinh tế vẫn chưa kết thúc và các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang nỗ lực vực dậy và phục hồi sau liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong 10 tháng có gần doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước, nghĩa là trung bình mỗi tháng có doanh nghiệp rút lui khỏi thị nghiệp Việt lên kế sách “đón sóng” FDIChuyên gia Vietnam Report cho rằng, trên thực tế, những rào cản, thách thức như thị trường bị thu hẹp, nhu cầu tiêu dùng giảm, tăng trưởng kinh tế không ổn định, gián đoạn, đứt gãy nguồn cung ứng đều xuất phát từ sự bùng phát của đại dịch Covid-19. Đây là rủi ro mà không doanh nghiệp nào có thể lường vậy, khi đối mặt với biến cố lớn, đa phần các doanh nghiệp đều rơi vào trạng thái bị động và phải gánh chịu nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng tại thời điểm dịch vừa diễn nhiên, khảo sát mới đây được Vietnam Report tiến hành cho thấy đến thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp VNR500 top 500 doanh nghiệp có quy mô lớn nhất nước đã thực hiện một số chiến lược nhằm ứng phó trước những tác động tiêu cực trong dịch và phục hồi sau đó, trong 5 chiến lược ưu tiên của doanh nghiệp sau đại dịch, 90,4% quyết định tăng cường đào tạo nhân viên, tối đa hóa nguồn nhân lực; 86,5% doanh nghiệp lựa chọn giảm thiểu chi phí; 73,1% doanh nghiệp thực hiện tăng cường ưu thế cạnh tranh; 53,8% doanh nghiệp có dự định tăng cường nguồn vốn cho ứng dụng công nghệ và kĩ thuật số và có 42,3% doanh nghiệp sẽ đẩy mạnh trải nghiệm khách Report cho biết, bước qua khủng hoảng, các doanh nghiệp cũng dần trở nên thận trọng hơn trong các quyết định đầu tư kinh doanh. Có 58,1% doanh nghiệp được hỏi cho biết họ dự kiến sẽ mở rộng đầu tư đối với lĩnh vực kinh doanh chủ lực hiện tại, 37,2% dự kiến giảm mức đầu tư kinh doanh xuống và 4,7% doanh nghiệp giữ nguyên quy mô hiện hai năm tới, 48,8% doanh nghiệp tham gia khảo sát quyết định không mở rộng sang các dự án và lĩnh vực kinh doanh mới. Còn lại, trong số 51,2% doanh nghiệp có kế hoạch mở rộng đầu tư kinh doanh sang lĩnh vực mới, có 52,2% doanh nghiệp sẽ tiến hành tìm kiếm thị trường mới, 30,2% doanh nghiệp cho biết họ sẽ thực hiện các dự án liên doanh/liên kết và 11,6% doanh nghiệp sẽ thực hiện các dự án mua bán/sáp nhập M&A.Trước bối cảnh nền kinh tế thế giới còn nhiều biến động và tại một số quốc gia, tình hình dịch Covid-19 vẫn chưa được kiểm soát với số ca nhiễm vẫn ngày một tăng, các doanh nghiệp đa quốc gia đã và đang lên kế hoạch tìm kiếm “vùng đất mới” để đầu tư và phát những nỗ lực được ghi nhận từ kết quả tăng trưởng dương trong suốt thời gian qua, Việt Nam đang là điểm đến lý tưởng - nơi được dự báo sẽ thu hút lượng lớn dòng vốn FDI dịch chuyển từ Trung trước cơ hội này, đa phần các doanh nghiệp VNR500 trong khảo sát mới đây cho biết, họ đã có những chuẩn bị để tiếp cận dòng vốn FDI đó, top 3 chiến lược của doanh nghiệp trước cơ hội từ sự dịch chuyển dòng vốn FDI là đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ quản lý, cải thiện năng suất và kỹ năng cho người lao động chiếm 81,4% phản hồi; tìm hiểu, nghiên cứu về tác động tiềm tàng của dòng dịch chuyển vốn FDI đối với hoạt động của doanh nghiệp mình 62,8% và lên phương án mở rộng thị trường, từng bước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu 55,8%.Báo cáo này của Vietnam Report cũng cho hay, nếu như trong giai đoạn trước, khi phải đối mặt với khó khăn do dịch Covid-19 gây ra, các doanh nghiệp đều đã tiến hành điều chỉnh chiến lược ưu tiên nhằm củng cố nội lực như cắt giảm chi phí hay tìm cách tối đa hóa nguồn nhân lực thì hiện nay, vấn đề mà các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu là duy trì dòng tiền ổn định và cân đối thu - đạt được điều này, không thể chỉ dựa vào nội lực của doanh nghiệp mà cần nhờ đến sự giúp đỡ từ phía Nhà nước và các ngân hàng thông qua các gói hỗ trợ, ưu đãi và cho vay. Thời gian qua, DNVVN là động lực phát triển cho nền kinh tế đất nước. Từ năm 2001 đến 6/2008 đã có DN, chủ yếu là các DNNVV đăng ký mới với số vốn đăng ký tỷ đồng, đưa tổng số các DN trong cả nước lên DN với tổng số vốn đăng ký trên tỷ đồng. Năm 2008 ước tính cứ 243 người có 1 DN đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, nếu so với mục tiêu phát triển KTXH và mục tiêu mà các nền kinh tế APEC phấn đấu đạt 1 DN trên 20 người dân và so với các quốc gia khác trong khu vực, tỷ lệ này vẫn còn rất thấp [47]. Sự phát triển của các DNVVN trong những năm qua có một số đặc điểm sau - Số lượng DN ngoài quốc doanh, mà phần lớn trong số đó là DNVVN tăng lên nhanh chóng, trong khi khu vực kinh tế tập thể và DN nhà nước đang được sắp xếp lại theo xu hướng giảm về số lượng. Loại hình doanh nghiệp tư nhân có tốc độ tăng nhanh nhất so với các loại hình khác trừ nhóm hộ kinh doanh cá thể. Theo thống kê, chỉ có khoảng gần 6% tổng số DN ngoài quốc doanh thành lập trước năm 1990, còn lại là ra đời trong giai đoạn từ năm 1991 đến nay [43-tr36]. - Khu vực DNVVN ngoài quốc doanh trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân khoảng 8,4%/năm 2006 - 9,3%/năm 2007, cao hơn mức trung bình của cả nước năm 2006 8,23; năm 2007 8,48 [41]. Điều đó phản ánh tiềm năng của khu vực DNVVN đang được huy động và phát huy. - Thực tế cho thấy, trong những năm qua các nhà đầu tư chủ yếu tập trung đầu tư vào các ngành ít vốn, thu hồi vốn nhanh như thương mại, dịch vụ nhà hàng, du lịch. Chỉ có khoảng hơn 30% vốn đầu tư được dành cho các ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm và sản xuất hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây đã có sự chuyển dịch đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ bản và công nghiệp chế biến. Các DNVVN hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và công nghiệp chế biến ra đời và phát triển nhanh một phần không nhỏ do chính sách đầu tư mạnh của Nhà nước vào xây dựng cơ sở hạ tầng như trường học, văn phòng làm việc, các khu đô thị, đường giao thông, điện,… - Thủ tục thành lập DN đơn giản, qui mô vốn đăng ký của DN mới thành lập giảm đi, nhất là đối với DNTN và công ty TNHH. Do đó tỷ lệ DNVVN trong tổng số các DN ngoài quốc doanh mới thành lập ngày càng lớn. - Như đã đề cập ở trên, có thể khẳng định rằng DNVVN có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của bất kỳ một quốc gia nào. Do vậy, hỗ trợ DNVVN phát triển cũng được coi là một yêu cầu cấp thiết, vì điều này không chỉ có lợi cho DN, mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội. - Quá trình tồn tại và phát triển của các DNVVN cho thấy loại hình DN này còn nhiều non kém, yếu ớt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt với những hạn chế như đã đề cập ở trên năng lực quản lý yếu, công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin, vốn ít,... Vì vậy, để các DN này phát huy được vai trò của mình, nhất thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Hơn nữa, có nhiều vấn đề mà DN không thể tự mình giải quyết được như tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường quốc tế, đào tạo nguồn nhân lực,... Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác nếu có sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ làm giảm bớt khó khăn cho DN, tạo điều kiện cho DNVVN đứng vững trên thị trường và phát triển thuận lợi. Thực tiễn của nhiều nước trên thế giới cho thấy chính sách hỗ trợ của Nhà nước không chỉ có lợi cho DN, mà còn có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Lợi ích đó được thể hiện trên các mặt sau + Đầu tiên, sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các DN là cách thức để nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. + Hỗ trợ DN là một cách đầu tư gián tiếp của Nhà nước, thay vì đầu tư trực tiếp để thành lập các DN nhà nước. Bằng những chính sách như hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, hỗ trợ đào tạo nhân lực,.. Nhà nước có thể định hướng phát triển các DNVVN, nhằm giải quyết những vấn đề xã hội như thất nghiệp, nâng cao đời sống cho người dân. Mặt khác góp phần tăng tính hiệu quả với nguồn vốn hạn hẹp của Nhà nước. Thay vì chỉ thành lập mới được một số ít DN nhà nước, thì với số vốn đó có thể hỗ trợ cho nhiều DN khởi nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó có các DNVVN. + Thông qua chính sách hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát triển sản xuất sẽ hiệu quả hơn, vì vừa huy động được tiềm năng sáng tạo trong dân, vừa thực hiện tốt chức năng quản lý của Nhà nước. Hà Nội, ngày 3 tháng 11 năm 2021 — Tăng cường hấp thụ, phổ biến công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là chìa khóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững ở Việt Nam - đó là thông điệp chính của hai báo cáo về đổi mới sáng tạo được công bố tại sự kiện do Bộ Khoa học và Công nghệ, Đại sứ quán Australia tại Việt Nam và Ngân hàng Thế giới đồng tổ chức hôm học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt NamBáo cáo "Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt Nam” là sản phẩm của Chương trình Hỗ trợ phân tích và tư vấn của Ngân hàng Thế giới về nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo Việt Nam. Báo cáo được xây dựng theo đặt hàng của Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam, do Chương trình Đối tác chiến lược Giai đoạn II giữa Chính phủ Úc và Nhóm Ngân hàng Thế giới ABP2 tài trợ. Báo cáo nghiên cứu khung phát triển và chính sách về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo hiện tại, phân tích những điểm nghẽn cản trở các doanh nghiệp đổi mới và đề xuất một nghị trình cải cách toàn diện để thúc đẩy tăng trưởng dẫn dắt bởi đổi mới sáng Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhận định “Việt Nam sẽ cần những động lực mới cho tăng trưởng kinh tế để có thể đạt được tham vọng trở thành một nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045 và đổi mới sáng tạo sẽ là nền tảng cơ bản trong việc nâng cao thu nhập và cải thiện chất lượng tăng trưởng. Tuy nhiên, có nhiều cách tiếp cận khác nhau để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và báo cáo này đưa ra những ý tưởng có thể phù hợp cho Việt Nam”.Báo cáo khuyến nghị Việt Nam nên tái cân đối chính sách phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của mình, chuyển từ tập trung đầu tư tạo ra công nghệ tiên tiến sang thúc đẩy hấp thụ và phổ biến công nghệ giữa nhóm các doanh nghiệp. Sự lan tỏa công nghệ - không chỉ là nghiên cứu và phát triển - có thể mang lại hiệu quả năng suất và chuyển đổi kinh tế đáng kể. Đây chính là điểm mà các can thiệp chính sách và hỗ trợ từ Chính phủ có thể mang lại lợi ích lớn tâm xây dựng năng lực để tận dụng tối đa các công nghệ hiện đại nhất nên là ưu tiên hàng đầu. Việc thu hẹp khoảng cách về kỹ năng của lực lượng lao động - cả chất lượng và số lượng - cũng sẽ rất quan trọng để khai thác toàn bộ sức mạnh của đổi mới sáng phát hiện và khuyến nghị này phù hợp với báo cáo cấp khu vực do Ngân hàng Thế giới thực hiện trước đó với tiêu đề “Đổi mới sáng tạo ở các quốc gia đang phát triển khu vực Đông Nam Á – Yêu cầu cấp thiết”. Báo cáo này đã chỉ ra sự không phù hợp giữa các chính sách về đổi mới sáng tạo và khả năng cũng như nhu cầu của các doanh nghiệp và các tổ chức. Đây cũng là vấn đề phổ biến giữa các quốc gia trong khu vực, một lý do dẫn tới sự tụt hậu so với các nền kinh tế tiên tiến về bề rộng và cường độ sử dụng công nghệ cáo cho rằng việc áp dụng đổi mới sáng tạo sâu rộng hơn nữa có thể giúp các quốc gia vượt lên các thách thức mới để tiếp tục phát triển, kể cả các yếu tố xung đột địa chính trị toàn cầu, đại dịch COVID-19, biến đổi khí hậu và sự sụt giảm đáng kể về tăng trưởng năng suất. Để thúc đẩy đổi mới sáng tạo đòi hỏi một chương trình cải cách toàn diện. Ngoài việc định hướng lại các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cho phù hợp hơn với năng lực và nhu cầu của doanh nghiệp, các quốc gia cần tăng cường các yếu tố bổ trợ quan trọng cho đổi mới sáng tạo như kỹ năng của người lao động và khả năng tiếp cận tài chính cho các dự án đổi mới sáng mới công nghệ ở Việt Nam Đánh giá tác động của công nghệ đến tăng trưởng kinh tếTác động của việc hấp thụ công nghệ cũng được định lượng rõ ràng trong báo cáo “Đổi mới công nghệ ở Việt Nam Đánh giá tác động của công nghệ đến tăng trưởng kinh tế” do CSIRO, cơ quan khoa học quốc gia Australia và các đơn vị thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam cùng thực tài trợ bởi Chương trình Aus4Innovation, báo cáo cung cấp các công cụ để đánh giá hiện trạng và tác động của tiến bộ công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Bằng cách áp dụng các mô hình kinh tế vào cơ sở dữ liệu rộng lớn về việc hấp thụ công nghệ của các doanh nghiệp tại Việt Nam, kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố công nghệ đóng góp hơn 50% tổng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn biểu tại sự kiện ra mắt, Bà Robyn Mudie, Đại sứ Australia tại Việt Nam, chia sẻ “Australia đã và đang hỗ trợ Việt Nam đưa ra các quyết định chính sách dựa trên cơ sở thực chứng trong lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo và báo cáo này là một mốc quan trọng nữa trong quan hệ đối tác của chúng tôi. Một nhóm các nhà nghiên cứu từ Australia và Việt Nam đã thực hiện báo cáo này trong một năm rưỡi, thu thập và phân tích dữ liệu trong giai đoạn gần 20 năm qua để phát triển hai mô hình kinh tế hiện đại nhằm lượng hóa mức độ đóng góp của tiến bộ công nghệ vào tăng trưởng kinh tế. Chúng tôi hy vọng rằng Bộ Khoa học và Công nghệ có thể vận dụng hai mô hình này trong hoạch định các chính sách về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia trong dài hạn”.Báo cáo là nguồn tham khảo chính sách quan trọng trong quá trình chuyển đổi kinh tế của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và cho thấy tính hiệu quả và nhân tố đổi mới sáng tạo đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tăng trưởng kinh tế so với vốn và lao động giá vọng cho Việt Nam “Các báo cáo đã chỉ rõ vai trò đóng góp quan trọng của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong tăng trưởng kinh tế - xã hội ở Việt Nam và con đường để Việt Nam tiến về phía trước, không ngừng hoàn thiện và nâng cao năng lực hệ sinh thái đổi mới sáng tạo,” Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam ông Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh. “Chúng tôi sẽ tiếp tục tăng cường hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia để thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình sáng tạo, truyền bá, ứng dụng tri thức và công nghệ phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững đất nước đến năm 2030 và 2045. Bộ Khoa học và Công nghệ đánh giá cao hỗ trợ của Chính phủ Australia và Ngân hàng Thế giới trong các nỗ lực này và mong muốn có thêm các sáng kiến ​​hợp tác tiếp theo để đưa các khuyến nghị, công cụ hữu ích này vào thực tiễn”.Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh chóng cả về phương diện kinh tế và công nghệ trong những năm gần đây. Vai trò của người lãnh đạo cùng với thể chế mạnh sẽ là chìa khóa để Việt Nam tận dụng cơ hội và tháo gỡ các nút thắt để không ngừng phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

sự phát triển của doanh nghiệp việt nam